Bệnh tuổi già

Chấn thương sọ não hở

Một dạng khác đối lập với chấn thương sọ não kín không thể nhìn thấy vết thương từ bên ngoài là chấn thương sọ não hở. Chấn thương sọ não hở dễ nhận biết hơn so với dạng kín bởi vết thương có thể nhìn thấy được và dễ chuẩn đoán hơn.  Mục lụcCác dạng chấn thương sọ não hởTheo tác nhân gây chấn thươngTheo vị trí giải phẫu của sọPhân loại theo độ sâuGiải phẫu bệnh Triệu chứng và chuẩn đoánLâm sàngKhám hộp sọKhám xét thần kinhCận lâm sàngTiến triển của vết thương sọ não hởNguyên tắc điều trị chấn thương sọ não hởNguyên tắc điều trịSơ cứu và cấp  cứu Các dạng chấn thương sọ não hở Theo tác nhân gây chấn thương Vết thương do hỏa khí thường là do các mảnh đạn, bom. Những vết thương do đạn thường là những vết thương đơn thuần nhưng gây thương tổn lớn và các chất não hủy hoại và dịch não tủy thoát ra ngoài, đặc biệt các mảnh bom bi thường gây những vết thương thấu não, thương tổn nhiều tổ chức não và mạch máu, lỗ thủng da và xương sọ nhỏ, thường tự bít lại dịch não tủy và máu không chảy ra ngoài được dễ gây ra máu tụ hộp sọ. Vết thương do va đập tai nạn Vết thương do vật nhọn đâm chém: dao, kiếm,… Theo vị trí giải phẫu của sọ Vùng trán, vùng đỉnh, vùng thái dương thường chiếm tỷ lệ cao từ 21-23%. Các vết thương vùng sọ hố sau và vùng chẩm, các vết thương xoang tĩnh mạch chiếm từ 1-5% có tỷ lệ tử vong cao. Phân loại theo độ sâu Vết thương thấu não: Là những vết thương gây tổn thương da, xương sọ và màng cứng trở vào. Là vết thương chỉ có một lỗ và dị vật nằm trong hộp sọ. Vết thương xuyên não: Là những vết thương xuyên cả hai thành của hộp sọ, thường do đạn bắn, miệng vết thương thường có dịch não tủy chảy ra, các mảnh xương sọ nằm văng ra ngoài da hoặc còn dính cốt mạc nằm ngay vết thương. Vết thương thấu não tiếp tuyến: Là những vết thương mà đường đi tiếp tuyến với hộp sọ có thể do đạn hoặc do mã tấu chém. Vết thương sọ não thông với xoang hơi: Thường là xoang hàm, xoang trán, xoang sàn, xoang bướm hoặc xoang chủm. Vết thương sọ não thông với xoang tĩnh mạch: Thường gặp là xoang tĩnh mạch dọc trên, xoang ngang. Loại vết thương này nặng, bệnh nhân thường nặng có tỷ lệ tử vong cao trước, trong và sau mổ. Vết thương sọ não hở nhiễm trùng: Là những vết thương sọ não hở đến muộn, thấy rõ tổ chức não lòi ra vết thương hoại tử. Bệnh nhân ở trong bệnh cảnh của viêm màng não. Giải phẫu bệnh  Từ ngoài vào trong của một vết thương sọ não hở điển hình như sau: Da đầu bị rách, có khi có một ít tổ chức não dính vào tóc trông như bã đậu, có hình cái nấm nằm ngay giữa vết thương, chung quanh có thể thấy máu hoặc dịch não tủy chảy ra. Xương sọ bị vỡ, có thể có nhiều mảnh sọ cắm sâu vào tổ chức não được nhận diện trên lâm sàng hoặc X quang. Thường xương sọ tổn thương rộng hơn phần mềm. Màng não bị thủng mép lỗ thủng có thể nham nhở hoặc sắc gọn tùy theo tác nhân. Tổ chức não bên trong bị giập nát, phù nề, nếu vết thương đến muộn có thể có những ngách mủ ở bên trong hoặc tổ chức não giập nát xen kẻ với máu tụ rải rác. Triệu chứng và chuẩn đoán Lâm sàng Đối với vết thương sọ não hở thùy theo loại tổn thương như đã phân loại ở  trên và bệnh nhân vào viện sớm hoặc muộn mà triệu chứng toàn thân tại chỗ  và dấu hiệu thần kinh có khác nhau. Nếu đến sớm ngay sau khi bị thương bệnh nhân có thể mê 10-15 phút sau đó tỉnh lại, bệnh nhân có thể liệt hoặc không tùy theo vị trí của vết thương. Đối với loại vết thương này thường gặp đang chảy máu dịch não tủy hoặc tổ chức  não trắng bệch chưa nhiễm trùng. Nếu đến muộn thường bệnh nhân trong tình trạng nhiễm trùng viêm màng não, sốt cao, cứng gáy, tại chỗ vết thương có mủ và những lớp màng giả  bao bọc lên tổ chức não bị lòi ra. Nếu xét nghiệm dịch não tủy cũng sẽ thấy bạch cầu tăng theo trong dịch não tủy. Khám xét và chẩn đoán một  bệnh nhân chấn  thương sọ não hở gồm các bước sau: Khám hộp sọ Nên cạo tóc để dễ khám hơn, xác định vị trí và kích thước của các vết thương. Cần xác định mức độ thương tổn xương sọ, mức độ thương tổn có chất não và dịch não tủy lòi qua vết thương không, tuyệt đối không được  dùng que thăm dò để chẩn đoán vết thương sọ não hở vì sẽ gây tổn thương thêm tổ chức não và nhiễm trùng. Khám xét thần kinh Cần khám xét tình trạng ý thức, chức phận thần kinh chính. Khám tri giác: Cần đánh giá chính xác độ hôn mê có thang điểm Glasgow. Khám các chức phận thần kinh Khám vận động xem bệnh nhân có yếu liệt không: Làm các nghiệm pháp  Baree tay, Baree chân, Mingazigni từ đó xác định mức độ rối loạn của hệ vận động hoặc bại liệt. Khám cảm giác xem có rối loạn các cảm giác nông sâu xúc giác tinh tế. Do vậy nên khám cảm giác đau. Khám phản xạ gân xương  tứ chi so sánh hai bên và xác định bên nào thay đổi tăng hoặc giảm. Khám các dây thần  kinh sọ: Khám toàn bộ các dây thần kinh trong giai đoạn  cấp tính là việc làm khó khăn, cho nên chỉ khám một số dây thần kinh chính như dây II, III, IV, VI. Cận lâm sàng X quang là phương tiện chẩn đoán chính xác cho thấy rõ vị trí và hình ảnh tổn  thương xương sọ kích thước và vị  trí các mảnh xương rời giúp phẫu thuật lấy bỏ triệt để các mẫu xương  này.  X quang còn cho biết được kích thước và vị trí các dị vật nằm trong hộp sọ. Đối với chụp cắt lớp vi tính ngoài phát hiện tổn thương của cấu trúc xương,  cấu trúc xoang, các dị vật trong hộp sọ có tính cản quang, nó còn cho thấy  rõ  hình ảnh của não dập, máu tụ tình trạng phù nề của  nhu mô não hoặc những ổ abcès trong những trường hợp vết thương sọ não hở đến muộn. Tiến triển của vết thương sọ não hở Chấn thương sọ não hở, các vết thương trải qua 5 giai đoạn như sau: Giai đoạn 1: Giai  đoạn cấp tính, 3 ngày đầu sau khi bị thương có thể gặp một số biến chứng sau: rối  loạn hô hấp  và tim mạch, choáng chấn thương và mất máu, chèn ép não do máu tụ nội sọ. Giai đoạn 2: Giai đoạn biến chứng sớm, giai  đoạn này kéo dài từ ngày thứ 3 đến hết tháng đầu sau bị thương  bệnh nhân dần dần thoát khỏi tình trạng  hôn mê và biểu hiện rõ rệt các dấu hiệu tổn thương  thần kinh khu trú. Giai đoạn 3: Giai đoạn trung gian, giảm dần các biến chứng sớm, giai đoạn này kéo dài từ tháng thứ 2 đến tháng thứ 6, bệnh nhân được hồi phục dần, giảm dần các biến chứng sớm, ý thức bệnh nhân ngày được hồi phục. Giai đoạn 4: Giai đoạn biến chứng muộn, từ tháng thứ 6 đến 2 năm, ở giai đoạn này có thể gặp một số biến chứng như abcès não, viêm xương  sọ, dò dịch não tủy. Giai đoạn 5: Giai đoạn di chứng, kéo dài từ năm thứ hai trở đi, phục hồi các chức phận thần kinh, chỉ còn để lại các di chứng thực thể của não. Nguyên tắc điều trị chấn thương sọ não hở Nguyên tắc điều trị Chấn thương sọ não hở là có chỉ định mổ, mổ càng sớm càng  tốt. Tuy nhiên nếu vết thương sọ não có não lòi ra ngoài nhiều hoặc có biểu hiện tổn  thương thân não, nạn nhân trong tình trạng mê sâu, rối loạn hô hấp và tim mạch cần phải hồi sức trước mổ. Cách xử trí một vết thương sọ não hở: lấy hết xương vụn và não giập, loại bỏ các dị vật nếu được và sau đó biến vết thương sọ não hở thành kín từ trong ra ngoài. Có những trường hợp do  mảnh hỏa khí hoặc dị vật nằm sâu ở nền sọ ví dụ mảnh bom bi nếu bệnh nhân vẫn tỉnh táo và vết thương tự cầm máu thì có thể không cần phải mổ cấp cứu. Xem thêm: “Điều trị chấn thương sọ não” Sơ cứu và cấp  cứu Trong sơ cứu, cấp cứu bệnh nhân chấn thương sọ não cần lưu ý các vấn đề sau: Phải theo dõi tri giác bệnh nhân nếu bệnh nhân mê dần hoặc có một khoảng tỉnh thì cần thiết phải có những bước chẩn đoán tiếp về hình ảnh để theo dõi  tình trạng chèn ép não thường do máu tụ hoặc phù não đây là một công tác cấp cứu. Cần cho kháng sinh tiêm hoặc uống với liều cao để tránh tình trạng viêm màng não và phải sử dụng sớm hạn chế tình trạng vấy bẩn lên vết thương và lòi não. Nếu bệnh nhân có rối loạn hô hấp khó thở thì có thể phải mở khí quản đặt nội khí quản tùy theo điều kiện hoàn cảnh từng nơi thông khí. Các động tác thăm dò vết thương bằng dụng cụ, dùng thuốc sát trùng mạnh như cồn iốt là những việc không nên làm. Chia sẻ

Chấn thương sọ não kín

Là một dạng của chấn thương sọ não, sau chấn thương sẽ có các loại tụ máu kín trong hộp sọ, chấn thương nằm kín bên trong não nên được gọi là chấn thương sọ não kín. Mục lụcChấn thương sọ não kín là gì?Các dạng tổn thương trong chấn thương sọ não kínChấn động nãoNứt sọDập nãoPhù nãoMáu tụChẩn đoán chấn thương sọ não kínĐiều trị chấn thương sọ não kínTrường hợp không mổPhẫu thuật lấy bỏ máu tụ nội sọ Chấn thương sọ não kín là gì? Bị chấn thương sọ não nhưng không làm rách màng não cứng, nghĩa là khoang dưới nhện không thông với môi trường bên ngoài thì gọi là chấn thương sọ não kín. Chấn thương sọ não thường là do các tai nạn gây ra ví dụ như: tai nạn giao thông, tai nạn lao động xây dựng, tại nạn sinh hoạt, kể cả tai nạn thể thao và say bia rượu. Hiện nay tỷ lệ người bị tai nạn chấn thương sọ não ngày càng gia tăng đặc biệt là khi đất nước đang phát triển về công nghiệp và giao thông vận tải. Có đến 50% bệnh nhân bị chấn thương sọ não nặng có những thương tổn lan toả, điều trị khó khăn, tiên lượng rất nặng: 45,7% tử vong, số còn sống thì 16,1% có những di chứng sau chấn thương nặng nề. Để cấp cứu được bệnh nhân bị chấn thương sọ não kín là phát hiện khối máu tụ trong hộp sọ gây chèn ép não cấp tính và xử lý cấp cứu kịp thời. Việc theo dõi phát hiện tụ máu trong chấn thương sọ não kín là một cấp cứu ngoại khoa chung mà người thầy thuốc thực hành nào cũng phải biết để chẩn đoán và xử trí hoặc chuyển lên tuyến trên kịp thời, mối hy vọng giảm được tỷ lệ tử vong. Các dạng tổn thương trong chấn thương sọ não kín Chấn động não Đây là dạng nhẹ nhất của chấn thương sọ não kín. Người bệnh chỉ bị chấn động não với những biểu hiện như: rối loạn ý thức, rối loạn tri giác thường là một người bị chấn thương vào đầu, sau đó mê ngay khoảng 15 phút cho đến vài giờ rồi bệnh nhân tỉnh dần, có thể kèm theo nôn mửa, khi thay đổi tư thế nhức đầu, đây là thể đặc biệt hay gặp nhất đối với trẻ em. Dạng tổn thương này thường không để lại di chứng, các triệu chứng sẽ hết sau vài tuần điều bị và não không bị tổn thương thực thể. Nứt sọ Đây thường là dạng tổn thương nguyên phát trong chấn thương. Nứt sọ có thể từ đơn giản đến phức tạp, vỡ lúc sọ thay đổi kích thước của  hộp sọ là có chỉ định mổ lấy bỏ  hoặc là nâng xương lún. Ngoài ra nứt sọ còn là nguyên nhân gây máu tụ ngoài màng cứng. Tuy nhiên nứt sọ cũng có thứ phát: thể nứt sọ tiến triển ở trẻ em. Dập não Chấn thương làm vùng bề mặt não bị dập.  Dập não được chia làm 2 loại là nặng và nhẹ. Dập não nhẹ: Có thể gây đụng dập, bầm tím ở mặt ngoài của vỏ não, hoặc dập một phần của vỏ não, nạn nhân thường vẫn tỉnh táo, có thể qua khỏi, nhưng thường có di chứng nơi não đã bị dập (động kinh, rối loạn tâm thần, rối loạn ngôn ngữ). Dập não nặng: là tổn thương dập nát nhiều tổ chức não, sau chấn thương bệnh nhân thường hôn mê ngay và hôn mê ngày càng sâu, ít trường hợp qua khỏ Biểu hiện của dập não chính là rối loạn ý thức sau chấn thương, tùy vào mức độ diập não mà thời gian phục hồi ý thức có khác nhau có thể 5-10 ngày sau chấn thương hoặc 2-3 tuần sau chấn thương. Trạng thái tâm thần như kêu la, vật vả, giãy giụa gặp trong đại đa số bệnh nhân. Có rối loạn về thần kinh thực vật là rối loạn chức phận sống như hô  hấp và tim mạch. Trong giập não nặng bệnh nhân tử vong, trong thể nhẹ và vừa rối loạn hô hấp không nghiêm trọng và có xu hướng tốt lên, các biểu hiện thần kinh khu trú được phát hiện ngay sau chấn thương khác với máu tụ. Phù não Là một tổn thương phức tạp nhất, và điều trị cũng khó khăn. Hiện tượng phù não thường xảy ra ngày thứ 2 và thứ ba sau chấn thương. Phù não là tình trạng tích tụ nước trong mô não, gây tăng thể tích của não và hậu quả là làm tăng áp lực nội sọ. Phù não phân chia ra hai loại chính: Phù não khu vực ngoài tế bào: phù não của tổ chức chất trắng (phù do vận mạch) Phù não khu vực tro.ng tế bào; phù của tổ chức chất xám (phù do nhiễm độc tế bào xảy ra ở tổ chức chất xám). Phù não sau chấn thương sọ não xảy ra cùng một lúc của hai loại trên: phù do vận mạch và phù do nhiễm độc tế bào. Máu tụ Đây là dạng tổn thương khó chuẩn đoán và gây tử vong cao nhất trong chấn thương sọ não kín. Có 3 dạng tụ máu bao gồm: Máu tụ ngoài màng cứng Máu tụ dưới màng cứng Máu tụ trong  não Máu tụ ngoài màng cứng  Vị trí khối máu tụ giữa mặt trong xương sọ và mặt ngoài màng cứng. Nguồn chảy máu do: Động mạch màng não giữa bị đứt, thường do một đường vỡ xương đi ngang qua vùng thái dương. Động mạch này là một nhánh của một động mạch hàm trong chui từ nền sọ lên qua lỗ tròn bé, rồi chia rất nhiều nhánh chạy khắp màng cứng của đại não (từng bên một), có thể bị đứt bất kỳ nhánh nào. Động mạch này dính sát mặt trong xương sọ làm xương lõm thành những rãnh. Vì vậy khi xương bị rạn hoặc một nhánh mạch máu chỉ bong khỏi mặt ngoài của màng cứng là có thể bị đứt gây chảy máu ngoài màng cứng. Tĩnh mạch: Do thương tổn rách xoang tĩnh mạch hoặc các hạt Pacchioni ở hai bên xoang tĩnh mạch dọc trên. Máu còn có thể do lớp xương xốp của sọ vỡ chảy vào. Mức độ tụ máu phụ thuộc và mức độ tổn thương của mạch mái. Máu tụ ngoài màng cúng thường gặp ở các vùng thái dương, thái dương đỉnh, ít gặp ở vùng trán. Máu tụ ở vùng chẩm và hố sau hiếm gặp hơn và chẩn đoán khó. Máu tụ dưới màng cứng  Vị trí khối máu tụ nằm giữa mặt trong màng cứng và màng nhện. Nguồn máu chảy do thường là do đứt tĩnh mạch đi từ vỏ não về xoang tĩnh mạch. Máu tụ dưới màng cứng được chia làm 3 dạng cấp tính, bán tính và mãn tính: Cấp tính: Dưới 3 ngày, khi mổ ra có máu đỏ có khi đang chảy. Dạng cấp tính này thường kèm theo 1 vùng não bị dập,  bệnh nhân hôn mê sâu và nhanh sau một  chấn thương mạnh có thể liệt nữa người và giãn đồng tử bên đối diện. Trường hợp nặng sẽ rối loạn nhịp thở, có cơn co cứng mất  vỏ và mất não. Máu tụ dưới màng cứng thường có nhiều thương tổn phối hợp ở não, nên tiên lượng rất nặng. Bán cấp: trước 3 tuần, máu đã ngã màu đen, sau một chấn thương nhẹ vào đầu có khi do một chấn thương không đáng  kể sau 2-3 tuần bệnh nhân nhức đầu, buồn nôn, có khi chậm chạp, hay quên, mắt có phù gai thị, có yếu liệt nhẹ nữa người. Dạng máu tụ dưới màng cứng bán cấp tiên lượng sau mổ tốt. Mãn tính: Loại này ít gặp hơn, thường diễn biến từ 3 tuần đến vài tháng sau chấn thương. Máu có màu vàng do hồng cầu vỡ nhân hemoglobin. Khi mổ người ta thấy các thành phần hữu hình của máu đã được hấp thu, khối máu tụ chỉ còn dịch vàng trong. Nạn nhân thường có dấu hiệu tăng áp lực nội sọ dần dần, phù nề gai thị, liệt nhẹ nửa người, rối loạn tinh thần… Máu tụ trong não Khối máu tụ nằm trong tổ chức não, thường kèm theo tổ chức não dập và phù não. Nguyên nhân do não dập làm tổn thương các mạch máu trong tổ chức não gây ra khối máu tụ. Loại này ít gặp hơn so với hai loại máu tụ ngoài màng cứng và dưới màng cứng. Chẩn đoán khó, nhưng có khoảng tỉnh rõ ràng. Tiên lượng nặng. Nếu sống được cũng để lại nhiều di chứng, tàn phế. Chẩn đoán chấn thương sọ não kín Các bệnh nhân chấn thương sọ não được theo dõi cẩn thận và qua nhiều lần khám so sánh lần sau với lần trước mới biết được sự tiến triển của các dấu  hiệu, đặc biệt là những  dấu hiệu về tri giác. Việc chẩn đoán máu tụ nội sọ  trước hết phải dựa vào các triệu chứng lâm sàng và theo dõi các triệu chứng đó: Khoảng tỉnh: Có  khoảng tỉnh điển hình hay không, tình trạng mê tăng lên hay giảm đi. Các thay đổi về dấu thần kinh thực vật (mạch, nhiệt, huyết áp, hơi thở…). Các biểu hiện về dấu thần kinh khu trú: Tình trạng giãn nở và đáp ứng ánh sáng của đồng tử. Tình trạng yếu liệt tứ chi không đồng đều. Các phương tiện cận lâm sàng như chụp sọ thẳng nghiêng, siêu âm não, mạch não đồ, chụp cắt lớp vi tính (C.T.Scanner), chụp cộng hưởng từ hạt nhân là những phương tiện chẩn đoán hình ảnh rất có giá trị. Điều trị chấn thương sọ não kín Trường hợp không mổ Được điều trị nội khoa, thường là các bệnh chấn động não và giập não được điều trị bảo tồn (không phẫu thuật) theo các nguyên tắc sau: chống rối  loạn hô hấp, chống phù  não, thuốc có tác  dụng đông miên, giải quyết  khâu thân  nhiệt cao và rối loạn chuyển hoá, thuốc chống rối loạn tâm thần sau chấn  thương. Chống rối loạn hô hấp: Ở giai đoạn cấp tính bệnh nhân hôn mê thường có tình trạng giảm oxy máu, đặc biệt võ não rất mẫn cảm với thiếu oxy. Tình  trạng thiếu oxy não dẫn tới dãn mạch não, tăng tính thấm thành mạch gây phù não. Do hôn mê, phản xạ ho giảm, ứ đọng đờm giãi, rối loạn hô hấp kiểu ngoại vi dẫn tới thiếu máu não. Nếu có tình trạng tắc nghẽn đường hô hấp  trên phải làm thông đường hô hấp như hút đờm giải, cần thiết phải mở khí quản, thở oxy. Khi có rối  loạn hô hấp hỗn hợp thì có chỉ định thở máy. Phù não: Giải  quyết rối loạn hô hấp ngoại vi, giải quyết tình trạng kích thích đó là những điều kiện có hiệu quả để dự phòng và điều trị phù não. Ngoài ra có thể làm mất bớt nước ở mô não bằng sử dụng các thuốc và dịch truyền như dung dịch Mannitol 15% x 1g/kg cơ thể, dung dịch glucose 10%  x 600ml truyền tĩnh mạch, calci chlorua 10%  x 10ml tĩnh mạch, Lasix x 40  x 1 ống  tĩnh mạch. Tùy theo điều kiện có thể sử dụng một trong các loại thuốc trên phối hợp. Hiện nay Mannitol được sử dụng nhiều và tỏ ra có hiệu quả hơn hết. Thuốc đông miên: Dùng cho những bệnh nhân kích thích vật vã, giãy dụa nhiều dễ dẫn đến phù não. Các thuốc được dùng Largactil 0,05  x 0,2ml, Phenergan 0,05  x 2ml, Dolosal 0,10 x 2ml. Giải quyết thân nhiệt cao và rối loạn chuyển hoá: Khi nhiệt độ cao trên 380C có thể dùng hạ nhiệt, dung dịch Piramdon 4% x 5ml tiêm bắp thịt chườm lạnh chung quanh đầu. Chống rối loạn chuyển hoá đặc biệt ở thời kỳ hôn mê kéo dài, cơ bản giải quyết vấn đề toan máu, ta có thể dùng dung dịch kiềm 14% x 300ml tĩnh mạch. Điều chỉnh điện giải bằng cách pha vào dung dịch huyết thanh ngọt 10% các   điện giải sau Kali chlorua 0,75  x  2-3  ống, calci chlorua 0,50 x  1-2 ống. Truyền huyết thanh mặn 9%, ngoài  ra đề phòng bội nhiễm: dùng kháng sinh, dùng sinh tố nhóm B, đặc biệt là B1 và B6 và sinh tố C. Chú ý nuôi dưỡng tốt bệnh nhân trong giai đoạn hôn mê. Phẫu thuật lấy bỏ máu tụ nội sọ Phẫu thuật là mắt xích quan trọng nhất để điều trị chấn thương sọ não căn nguyên của máu tụ nội  sọ. Trong phẫu thuật máu tụ nội sọ, người ta áp dụng hai phương pháp khoan sọ, khoan sọ sau đó gặm rộng và mở sọ bản lề. Sau khi lấy bỏ máu tụ, bản lề xương sọ được đặt về vi trí cũ. Sau này bệnh nhân không phải chịu cuộc mổ lần hai tức là mổ tái  tạo hộp sọ bằng xương mào chậu hoặc bằng các hợp chất hữu cơ khác. Máu tụ ngoài màng cứng Qua chỗ mở xương sọ tiến hành lấy bỏ máu tụ. Dùng thìa nạo gạt nhẹ lấy bỏ lớp máu tụ, đồng thời dùng bóng nước bằng cao su bơm mạnh. Đôi khi máu dính chặt vào màng cứng, phải dùng thìa, bông cầu nhỏ hớt mạnh lấy bỏ toàn máu tụ. Sau khi lớp máu tụ lấy bỏ, kiểm tra và cầm máu chỗ mạch máu bị tổn thương. Máu tụ dưới màng cứng Mở màng cứng hình chữ thập. Chủ yếu dùng bóng nước cao su, bơm mạnh ở các phía để máu tụ chạy theo. Rất thận trọng khi dùng công cụ như thìa,  bay mềm để lấy máu tụ vì dễ gây tổn thương não và mạch máu. Máu tụ MDC  thường dễ dàng lấy bỏ. Sau khi lấy bỏ máu tụ, kiểm tra tìm mạch máu tổn  thương. Nói chung là không tìm thấy mạch máu tổn thương vì máu đã đông lại ở chỗ đứt, chảy máu đã tự cầm, màng cứng cũng được khâu kín. Máu tụ trong não Mở màng não cứng hình chữ  thập. Thông qua vùng não giập (nếu có) hoặc sự thay đổi ở bề mặt của não, hoặc sờ tay để xác định ổ máu tụ trong não. Dùng Canun chọc thăm dò ở hướng nghi ngờ ổ máu tụ, độ sâu khoảng  4-5cm. Nhận thấy khối lượng máu tụ không lớn lắm. Đốt điện, vén não hai bên để dễ tới ổ máu tụ. Lấy bỏ bằng bơm rửa và hút. Màng cứng được khâu kín sau khi máu tụ được lấy bỏ hoàn toàn. Máu tụ trong não thất Tiến hành khoan sọ ở vị trí tiến hành chọc não thất. Tiến hành chọc hai sừng trước của não thất (đôi khi tiến hành chọc sừng sau của não thất bên). Hút bằng bơm  tiêm máu cục lẫn máu chưa đông, sau đó tiến hành bơm rửa não thất nhiều lần bằng nước muối sinh lý. Xem thêm: “Cách phục hồi sau chấn thương sọ não” Chia sẻ

Chấn thương sọ não nhẹ là gì?

Chấn thương sọ não được chia ra làm dạng chấn thương nặng và chấn thương nhẹ. Vậy chấn thương sọ não nhẹ là gì? và có nguy hiểm không? Mục lụcChấn thương sọ nãoChấn thương sọ não nhẹNguyên nhân gây chấn thương sọ não nhẹ.Triệu chứng chấn thương sọ não nhẹĐiều trị và chăm sóc người bị chấn thương sọ não nhẹ Chấn thương sọ não Chấn thương sọ não là một thuật ngữ y học dùng để chỉ chung cho những người bệnh bị sang chấn ở đầu gây tổn thương tới hộp sọ hay cấu trúc bên trong hộp sọ. Với các trường hợp chấn thương sọ não nặng sẽ gây nguy cơ tử vong cao và để lại di chứng nặng nề. Các dạng tổn thương nguyên phát bao gồm: Tổn thương da đầu và hộp sọ Tổn thương tại màng não Tổn thương mạch máu và tổ chức não (tổn thương mạch máu gây máu tụ ngoài màng cứng hay dưới màng cứng. Tổ chức não bị dập và chẩy máu trong não). Chấn thương sọ não chia theo tính chất thì bao gồm chấn thương kín và hở. Chia theo loại chấn thương thì bao gồm: Chấn động não hay còn gọi là chấn thương sọ não nhẹ, não không bị tổn thương, phục hồi sau chấn thương nhanh chóng và ít để lại di chứng Dập não: sự tổn thương tại hộp sọ và não, đây thuộc dạng chấn thương sọ não nặng Máu tụ: tụ máy ngoài màng cứng dưới màng cứng sọ não. Trường hợp này cần được phẫu thuật loại bỏ máu tụ và cầm máu ngay, nếu chậm có thể tử vong. Chấn thương sọ não nhẹ Chấn thương sọ não nhẹ hay còn gọi là chấn thương não gặp ở những bệnh nhân bị chấn thương vùng đầu. Hiện chưa có con số chính thức bao nhiêu phần trăm những bệnh nhân chấn thương sọ não nhẹ sẽ hồi phục nhanh chóng các triệu chứng. Tuy nhiên, các chuyên gia y tế cho rằng những triệu chứng chấn thương sọ não nhẹ ở các bệnh nhân sẽ hết hoàn toàn trong một vài tháng; nếu chúng kéo dài trên 6 tháng thì sẽ biến mất hoặc giảm rất nhiều trong vòng 1 năm sau chấng thương. Chấn thương sọ não nhẹ thường không để lại di chứng sau chấn thương về hành vi và khả năng nhận thức của bệnh nhân. Chẩn đoán chấn thương sọ não nhẹ đôi khi khá phức tạp vì những triệu chứng thần kinh hoàn toàn có thể do những chấn thương tại cơ quan khác gây ra. Ví dụ triệu chứng đau đầu của một người bị chấn thương sọ não nhẹ do tai nạn ô tô có thể kéo dài vài tháng. Họ có thể phải tìm đến bác sĩ và phát hiện ra rằng nguyên nhân gây đau đầu là do chấn thương vùng cổ mà không phải do tổn thương trực tiếp tại vùng đầu, do vậy họ cần được phát hiện đúng để có phương pháp điều trị phù hợp. Nguyên nhân gây chấn thương sọ não nhẹ. Chấn thương sọ não nhẹ có thể do các nguyên nhân sau gây ra: Chấn thương trực tiếp vào đầu, mặt, cổ hoặc bất kỳ vị trí nào trong cơ thể với hiệu ứng “thúc” lên đầu. Tổn thương chức năng thần kinh diễn ra nhanh chóng và tự khỏi. Tuy nhiên, có một số trường hợp, các triệu chứng và dấu hiệu có thể kéo dài từ một vài phút cho đến vài giờ. Thay đổi về sinh lý bệnh thần kinh, song các triệu chứng lâm sàng cấp tính thường phản ảnh một tổn thương chức năng thần kinh hơn là tổn thương cấu trúc thần kinh và vì vậy, không quan sát được bất kỳ biểu hiện bất thường nào trên các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh thần kinh cơ bản. Do hội chứng lâm sàng, trong đó có hoặc không kèm theo mất tri giác. Sự cản thiện các triệu chứng lâm sàng và triệu chứng tri giác trong cơn chấn động não điển hình là tiến trình tự nhiên. Tuy nhiên, điều quan trọng cần phải lưu ý rằng trong một số trường hợp, các triệu chứng này có thể kéo dài. Triệu chứng chấn thương sọ não nhẹ Triệu chứng điển hình của chấn thương sọ não nhẹ chính là lẫn, mất trí nhớ tạm thời, hay quên. Các triệu chứng này có thể gặp ngay sau chấn thương hay sau một thời gian ngắn nhất định. Chứng hay quên thường là tình trạng mất trí nhớ về lúc xảy ra chấn thương song thường mất khả năng nhớ về cả hiện tượng trước và sau chấn thương vùng đầu. Chứng hay quên quên cũng có thể được đánh giá bằng cách đề nghị bệnh nhân lặp lại các câu hỏi đã được trả lời. Chi tiết về sự tồn tại, thời gian mất tri giác, lẫn lộn và quên được cho là quan trọng tương đối trong việc hiểu về mức độ nặng của tổn thương cũng như nguy cơ của các biến chứng có thể xảy ra của chấn thương sọ não. Các triệu chứng chấn thương sọ não xuất hiện sớm bao gồm đau đầu, chóng mặt, mất nhận thức xung quanh, buồn nôn và nôn. Sau đó một vài giờ hoặc vài ngày, bệnh nhân có thể phàn nàn về những thay đổi về tâm trạng, và tinh thần, nhạy cảm với ánh sáng và tiếng động, và rối loạn giấc ngủ. Một số chấn thương sọ não có thể xuất hiện mà không có các dấu hiệu trên. Các dấu hiệu quan sát được ở một số bệnh nhân chấn thương sọ não nhẹ bao gồm: Nhìn chằm chằm vô định Phản ứng trả lời các câu hỏi chậm hoặc phản xạ chậm khi theo dõi các tình huống Mất khả năng tập trung Mất định hướng Rối loạn ngôn ngữ, nói lắp, lí nhí hoặc không mạch lạc. Mất phối hợp đồng vận: đi vấp, không thể đi theo đường thẳng Mất khả năng kiểm soát cảm xúc trước các tình huống cụ thể Mất trí nhớ tạm thời Điều trị và chăm sóc người bị chấn thương sọ não nhẹ Nếu điều trị tại bệnh viện, người bị chấn thương sẽ được theo dõi sát và có thể: Dùng các thuốc giảm đau nhẹ để điều trị đau đầu hoặc đau Không ăn hay uống gì cho tới khi được hướng dẫn tiếp Dùng các thuốc viên chống nôn ói để điều trị buồn nôn hay nôn ói Kiểm tra chụp cắt lớp não, cổ hoặc các xương (nếu cần) Kiểm tra chụp x-quang cổ nếu bị đau cổ hoặc bị nghi là có chấn thương cổ Đa số với chấn thương sọ não nhẹ người bệnh sẽ được cho ra viện về nhà chăm sóc. Chăm sóc bệnh nhân chấn thương sọ não tại nhà bao gồm: Nghỉ ngơi tĩnh tại trong ngày hôm đó. Dùng ‘các bọc đá’ trên các vùng bị sưng hoặc đau. Để làm việc này, hãy bọc các viên đá, các hạt đậu đông lạnh hay một gói đá thể thao trong một khăn bông. Không đặt đá trực tiếp lên da. Dùng các thuốc giảm đau đơn giản (như paracetamol) để điều trị đau đầu. Hãy kiểm tra gói thuốc để dùng đúng liều và chỉ dùng như được chỉ định mà thôi. Aspirin nên được tránh. Với trường hợp bệnh nhân bị lú lẫn, hay quên thì cần được gia đình chăm sóc và giám sát trong 24 tiếng đồng hồ sau chấn thương. Nếu người bị chấn thương được xuất viện vào buổi tối, hãy đảm bảo là trong đêm đó họ được đánh thức vài lần. Hãy đặt chuông đồng hồ. Hãy đảm bảo là người bị chấn thương đi bộ tới toilet hay thực hiện một hoạt động nào đó, cho phép quý vị đánh giá được khả năng phối hợp của người này. Không cho người bị chấn thương lái xe về nhà. Không để họ một mình trong 24 giờ đồng hồ sau đó. Không cho họ uống rượu trong ít nhất là 24 giờ đồng hồ. Không cho họ ăn hay uống trong sáu tới 12 giờ đầu (trừ khi được bác sĩ khuyên khác đi). Sau đó cho họ ăn và uống vừa phải. Không cho họ dùng các thuốc an thần hay thuốc nào khác trừ khi được hướng dẫn. Chia sẻ

Bệnh đãng trí - những điều chưa biết

Đãng trí không chỉ xảy ra đối với người già mà ngay cả khi còn trẻ tuổi vẫn có thể mắc chứng bệnh người già này. Nếu ai vẫn có suy nghĩ bệnh này chỉ gặp ở người già thì thật là sai lầm. Cùng Lohha Trí Não nhìn nhận lại về căn bệnh này nhé! Mục lụcBệnh đãng tríNguyên nhân gây bệnhỞ người giàỞ người trẻNhững con số biết nói về số người bị đãng tríDấu hiệu của người bị đãng tríGiải pháp mới Bệnh đãng trí Đãng trí hay còn gọi là hay quên là hiện tượng suy giảm kém dần của trí nhớ và nhận thức. Bệnh chia ra làm nhiều giai đoạn bao gồm khởi phát, phát triển và nặng. Ở giai đoạn khởi phát ban đầu người bị đãng trí sẽ quên tên, quên sự việc vừa xảy ra. Giai đoạn bệnh phát triển sẽ có những tư duy bất thường, bao gồm quên tên người quen, hỏi cùng một câu hỏi hoặc kể một câu chuyện tương tự nhiều lần và gặp khó khăn trong việc ghi nhớ mọi thứ trong cuộc sống hằng ngày. Giai đoạn nặng người bệnh sẽ không nhận ra người thân trong nhà, vụng về, hay đi lạc, mất khả năng sinh hoạt hằng ngày và trở thành ngơ ngác hay ngu ngốc, cần người khác chăm sóc kiểm soát mọi mặt. Nguyên nhân gây bệnh Bệnh không chỉ gặp ở người già mà ngay cả người trẻ tuổi. Đối với mỗi độ tuổi có những nguyên nhân khác nhau: Ở người già Khi lớn tuổi, cơ thể ít tạo ra các chất trung gian cần thiết cho não hoạt động khiến hệ thần kinh bị thoái hóa gây ra tình trạng mất trí nhớ. Do sự lão hóa của hệ thần kinh trung ương. Do kém ăn, chế độ dinh dưỡng nghèo nàn Do stress, căng thẳng, mệt mỏi, trầm cảm Do mãn kinh ở phụ nữ, rối loạn giấc ngủ. Do lạm dụng thuốc, rượu bia và chất kích thích… Do môi trường sống ô nhiễm, bụi bặm. Do di chứng hoặc mắc các bệnh lý liên quan như tai biến mạch máu não, đột quỵ, tiểu đường, chấn thương não… Ở người trẻ Căng thẳng, áp lực công việc và học hành là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến chứng đãng trí ở người trẻ tuổi. Ôm đồm quá nhiều việc cùng lúc khiến bộ não quá tải và suy yếu cũng dẫn đến chứng hay quên. Thiếu ngủ khiến cho tế bào não không được phục hồi hoàn toàn dẫn đến bệnh hay quên và mất trí nhớ ngắn hạn. Ăn uống thực phẩm chế biến sẵn nhiều đường hóa học, nhiều chất bảo quản và phụ gia… dễ sản sinh nhiều gốc tự do gây chứng suy giảm trí nhớ của não bộ. Lối sống không ngăn nắp, thiếu gọn gàng cũng là nguyên nhân gián tiếp dẫn tới chứng hay quên. Quá phụ thuộc vào công nghệ, lười động não, lười ghi nhớ. Thay vào đó là lệ thuộc vào các thiết bị công nghệ như: điện thoại, máy tính bảng, máy vi tính… Những con số biết nói về số người bị đãng trí Khoảng 24 triệu người trên thế giới bị bệnh đãng trí Đãng trí không chỉ xảy ra ở người già, hiện nay tỷ lệ người trẻ mắc bệnh đang tăng lên rất nhanh khoảng 20% bệnh nhân dưới 35 tuổi của các phòng khám thần kinh bị suy giảm trí nhớ , đãng trí hay quên. Xu hướng trẻ hóa của căn bệnh này ngày càng báo động. Chưa có khảo sát chính thức về tình trạng suy giảm trí nhớ ở người trẻ nhưng những thống kê sơ bộ từ Hội Thần kinh học TP Hồ Chí Minh cho thấy, cứ 100 người trẻ đến khám bệnh ở các bệnh viện công tại TP Hồ Chí Minh thì có đến 20 người gặp trục trặc về suy giảm trí nhớ.  Tại Australia, khảo sát năm 2014 cho thấy gần 24.500 công dân trẻ nước này mắc hội chứng đãng trí. Sau tuổi 30, cứ mỗi ngày có 3000 tế bào não chết đi mà không sản sinh thêm. Trong khi đó, mỗi tế bào ở lại phải hứng chịu sự tấn công của 10.000 gốc tự do làm hủy hoại các tế bào thần kinh làm xơ hóa các bao myelin và các đầu sợi trục tế bào thần kinh, gây chết tế bào, khiến chức năng não dần rối loạn, suy giảm trí nhớ gây đãng trí. Một nghiên cứu trên 451.232 người béo phì tại Anh suốt từ năm 1999 đến 2011 với 43% là nam giới, cho thấy người béo phì ở tuổi 30-39 có nguy cơ suy giảm trí đãng trí nhớ gấp 3,5 lần người bình thường. Dấu hiệu của người bị đãng trí Hay quên ngay những điều vừa mới nghe hoặc những điều vừa mới dự định làm. Khó khăn để nhớ thực hiện những việc quen thuộc hàng ngày (vệ sinh cá nhân, ăn uống…). Quên những từ đơn giản hoặc dùng từ không đúng. Có thể bị lạc ở một nơi đã từng rất quen thuộc, hoặc không thể nhớ phải làm thế nào để đến được nơi đó hoặc từ đó quay trở về nhà. Khó nhận biết con số hoặc thực hiện các phép tính đơn giản. Quên vị trí đồ vật vẫn thường để chỗ quen thuộc. Tâm trạng, khí sắc dễ thay đổi. Giải pháp mới Hiện nay các nhà nghiên cứu đã tìm ra các loại thảo dược có nguồn gốc thiên nhiên kết hợp với các thành phần có lợi cho não bộ tiêu biểu là: Thạch tùng thân gập hay còn có tên gọi khác là cây Thông đất. Thạch tùng thân gập tên khoa học: Huperzia hamiltonii phân bố chủ yếu ở núi cao Việt Nam và Trung Quốc, mọc trên thân cây có rêu trên núi đá. Đây là cây thuốc quý hiếm, chất Huperzine A trong cây có tác dụng bảo vệ sự toàn vẹn tế bào thần kinh, chống lại sự tổn thương tế bào thần kinh do thiếu máu cục bộ, có đến 58 % bệnh nhân được điều trị bằng Huperzine A cải thiện rõ rệt về trí nhớ, nhận thức và hành vi. Thạch tùng thân gập là một cây thuốc có tác dụng rất tốt giúp đẩy lùi căn bệnh đãng trí. Trong một đợt cùng đoàn hành trình tìm kiếm thuốc quý tại Hà Giang, BS Hoàng Sầm – Viện trưởng viện Y học bản địa Việt Nam vô tình thấy cây thông đất này mọc rất nhiều tại các mỏm đá tại cao nguyên đá Đồng Văn. Là một người trong ngành đã từng được đọc qua rất nhiều thông tin về tác dụng của cây Thông Đất, vị bác sĩ người Mán này lấy mẫu ngay về nghiên cứu, thử nghiệm. Trước khi rời khỏi còn không quên hướng dẫn bà con cách chăm sóc, bảo tồn. Bác sĩ đã dùng cho rất nhiều bệnh nhân của mình thấy hiệu quả tốt hơn cả mong đợi. Đến nay, sau gần 4 năm nghiên cứu và thử nghiệm một bài thuốc hoàn chỉnh với sự phối hợp của cao Lycoprin chiết xuất từ cây Thông Đất và rất nhiều vị thuốc tốt cho não bộ đã ra đời với tên gọi Lohha Trí Não. Lohha Trí Não là sự kết hợp hoàn hảo của Thạch tùng thân gập, Thành Ngạnh, Lá Dâu giúp nuôi dưỡng, bảo vệ, ngăn chặn teo và thoái hóa các tế bào thần kinh. Giải pháp mới cho người mắc chứng Teo não, sa sút trí tuệ, đãng trí hay quên giúp đẩy lùi các bệnh nhiều bệnh nhân. Chia sẻ

Đãng trí sau sinh

Thống kê cho thấy có 90% chị em phụ nữ sau sinh gặp phải tình trạng đãng trí. Do tình trạng đãng trí hay quên này mà nhiều chị em đã gặp phải không ít tình trạng dở khóc dở cười. Vậy tại sao lại có hiện tượng đãng trí sau sinh? Và làm cách nào để khắc phục nó? Lời kể của chị em sau sinh…. Không ít các trường hợp dở khóc dở cười do chứng đãng trí sau sinh mà ra. Dưới đây là câu chuyện của một số chị em: Chị Phạm Thanh Mai (Bãi Cháy, Quảng Ninh) chia sẻ trên trang cá nhân của mình, chị Thanh Mai viết: “Đẻ xong đầu óc chán các mẹ nhỉ? Mình đẻ 2 tập xong, trí nhớ và độ tập trung kém hẳn, nhiều lúc lơ đễnh phát rồ. Đút cho thằng lớn ăn thì lại đi đút cho thằng bé (mới 7 tháng) thế là nó oẹ (cháo nguyên hạt). Chị Nguyễn Phương (Hà Đông, Hà Nội) thì nhầm lẫn một cách “đáng yêu: “Sáng mình hỏi chồng là công ty trả lương tháng 5 chưa, anh xã nói chưa trả, công ty đang bị chậm lương vì chưa lấy được tiền từ chủ đầu tư. Có lẽ phải 2-3 hôm nữa. Đến chiều, mình lại hỏi anh xã câu này thì anh bảo: “Hình như sáng nay lúc anh chuẩn bị đi làm em hỏi câu này rồi”. Lúc đó, mình mới nhớ ra đúng là thế thật!!!…”. Chị Phạm Hôm (trú tại Hưng Yên) cũng có những pha đãng trí mà đến giờ nhắc lại hai vợ chồng chị vẫn còn cười ngặt nghẽo. “Có hôm tôi làm canh rau sống ăn, nhặt rau xong, ngâm muối rồi nhưng trưa quên béng mất không mang ra ăn, để đến chiều tối mới nhớ. Có lần nấu canh xong, để trên bếp, quên ăn luôn. Hay nhiều trường hợp khác, nấu canh cho 2 lần muối, chìa khóa cất nhưng không biết để đâu để phải cạy cửa,… Đọc thêm: “Điều trị chứng hay quên” Nguyên nhân gây hiện tượng đãng trí sau sinh Trên 90% chị em sau sinh trí nhớ kém hơn hẳn và mau quên. Không riêng gì ở Việt Nam mà đây là hiện tượng của các mẹ bỉm sữa trên thế giới. Cuộc nghiên cứu điều tra tại Úc điều tra trên 1000 phụ nữ mang bầu trên toàn thế giới để so sánh trí nhớ của bà bầu với những phụ nữ bình thường, kết quả các nhà nghiên cứu đã đưa ra kết luận: “Những người phụ nữ mang bầu có trí nhớ kém hơn và mau quên”. Nguyên nhân gây ra tình trạng đãng trí sau sinh là do tác động của các loại hormone sản sinh trong thai kỳ tác động lên não bộ. Ngoài ra còn có các nguyên nhân sau: Tâm lý trong suốt thời gian mang thai của chị em không ổn định với nhiều tâm trạng băn khoăn lo lắng khiến gây ra tình trạng mệt mỏi, ngủ không ngon giấc. Sau khi sinh, chị em lại tiếp tục chiến đấu với nhiều thay đổi về tinh thần, thể chất. Xáo trộn trong sinh hoạtkhi có em bé là điều khó tránh khỏi. Mất ngủ do chăm con, lo lắng sức khỏe con cái, tài chính gia đình,… gây ra những căng thẳng stress dẫn đến tình trạng hay quên, lơ đãng, mất tập trung ở các mẹ bỉm sữa. Các tâm lý ất ổn, stress trong suốt thai kỳ và sau sinh sẽ ảnh hưởng đến nội tiết tố gây tổn thương não bộ dẫn đến tình trạng suy giảm trí nhớ, đãng trí đặc biệt là sau khi sinh. Cách khắc phục Giấc ngủ ngon là bài thuốc số 1 cho chị em sau sinh. Vừa giải tỏa cơn thèm ngủ, đánh bay mệt mỏi vừa giúp chị em cải thiện trí nhớ. Chính vì vậy hãy tranh thủ ngủ sớm và đủ giấc để tránh mệt mỏi lo lâu. Áp dụng phương pháp mẹ ngủ con ngủ nhé. Tạo tâm lý: hãy giữ tâm lý thật tốt sau sinh. Không nên suy nghĩ hay lo lắng quá nhiều mà hãy sắp xếp thời gian nghỉ ngơi và công việc hợp lý để đảm bảo thể chất và sức khỏe. Gia đình là nơi hỗ trợ và quan tâm chăm sóc tốt nhất cho các bà mẹ trẻ. Chính vì vậy những người tâm trong gia đình, đặc biệt là người chồng nên hỗ trợ chăm sóc và chia sẻ cho người vợ, tạo tâm lý thoải mái nhất cho các bà mẹ bỉm sữa nhé. Lưu lại việc cần làm cần nhớ: dán giấy ghi nhớ vào nơi dễ thấy nhất hay dùng điện thoại nhắc nhở công viêc sẽ rất hữu ích với tình trạng hay quên. Tập thể dục thể thao: các bài tập thể dục sẽ giúp máu lưu thông lên não tốt hơn, làm cho giác quan tiếp nhận  thông tin nhanh hơn và giúp não lưu giữ thông tin lâu hơn. Các mẹ nên biết rằng tập thể dục đều đặn 30 phút mỗi ngày còn giúp chống stress và chống các bệnh lý gây giảm trí nhớ nữa đấy nhé. Bổ sung các thực phẩm tăng cường trí nhớ: bông cải xanh, cải bắp, súp lơ, rau bina, các loại ngũ cốc như gạo nâu, bột yến mạch, v.v…, các loại quả bơ, việt quất, táo, hạnh nhân, dâu tây, …, trà xanh, khoai lang, trứng, cá hồi v.v… nên có trong thực đơn của các bà mẹ, vì đây là những loại thực phẩm được xem giúp bổ trợ trí nhớ rất tốt. Ngoài ra, các mẹ cũng có thể áp dụng theo thực đơn Đông y với các món như óc lợn, trứng chim cút, hạt sen, mật ong, long nhãn, nấm linh chi, hà thủ ô, nhân sâm v.v…là những món hỗ trợ chữa trị chứng giảm trí nhớ khá hiệu quả. Chia sẻ

Cách chăm sóc bệnh nhân chấn thương sọ não

Có hai loại chấn thương sọ não là chấn thương sọ não nhẹ và chấn thương sọ não nặng. Loại chấn thương sọ não nhẹ thường gặp nhất là sự chấn động. Còn đối với chấn thương sọ não nặng thì nguy hiểm hơn, bệnh nhân thường có rối loạn hô hấp, tuần hoàn tổn thương thần kinh, phù não, chảy máu não… Do đó cách thức chăm sóc bệnh nhân chấn thương sọ não nặng nhẹ vì thế cũng khác nhau. Mục lục1, Cách chăm sóc bệnh nhân chấn thương sọ nãoChấn thương sọ não nhẹ: Chấn thương sọ não nặng:2, Các món ăn cho người bị chấn thương sọ não 1, Cách chăm sóc bệnh nhân chấn thương sọ não Chấn thương sọ não nhẹ có thể liên quan tới tình trạng mất tỉnh táo. Hiện tượng này thường là ngắn và thường sau đó là sự bình phục nhanh và hoàn toàn. Tuy nhiên, chấn thương sọ não nặng, bệnh nhân bắt buộc phải thở máy, chăm sóc tỉ mỉ  và làm các thủ thuật điều trị chấn thương sọ não dài ngày. Cụ thể: Chấn thương sọ não nhẹ: Đối với chấn thương sọ não nhẹ thì mức độ di chứng nhẹ nhất là suy nhược thần kinh sau trấn thương sọ não, biểu hiện đau đầu, kém ngủ, mệt mỏi, chóng mặt nhất là khi có sự thay đổi thời tiết. Cho nên, trong thời gian phục hồi sức khỏe, bệnh nhân cần được nghỉ ngơi, ăn uống đủ chất và đặc biệt tránh dùng các chất kích thích như rượu, bia, thuốc lá, cafein có thể ảnh hưởng đến não. Sau này nếu tình trạng sức khỏe ổn định, trí tuệ không bị ảnh hưởng có thể làm việc và sinh hoạt hoàn toàn bình thường. Chấn thương sọ não nặng: Mức độ nặng trong chấn thương sọ não có thể là phù não, thoát vị não, hội chứng tăng áp lực nội sọ, thiếu máu não, chảy máu não, máu tụ… sau đó để lại những di chứng vô cùng nguy hiểm như: tổn thương các dây thần kinh sọ não gây liệt, người bệnh vận động khó khăn hoặc không đi lại được, rối loạn tâm thần, động kinh. Vì vậy bệnh nhân cần được chăm sóc tỉ mỉ chu đáo, tránh bội nhiễm, chống loét và nuôi dưỡng đầy đủ theo sự hướng dẫn chặt chẽ của các y bác sĩ: Chăm sóc toàn thân: Vệ sinh răng miệng, thân thể ngày 2-3 lần, gội đầu 2 lần/ tuần. Nhỏ thuốc mắt mũi ngày 2-3 lần. Nếu bệnh nhân không nhắm mắt được: Kéo mi đậy kín bằng băng dính chống khô loét. Nếu bệnh nhân thở miệng: Đậy gạc tẩm nước. Nếu nằm lâu ngày thì cho bệnh nhân nằm đệm nước, trăn trở bệnh nhân chống loét 3h/lần. Hô hấp: Tự thở: Vệ sinh thay ống thở hàng ngày, làm ẩm không khí thở oxy qua nước. NKQ: Cứ khi nào bệnh nhân có đờm dãi thì hút và bơm rửa khí quản bằng dung dịch sát trùng, vệ sinh dây hút. Nếu dùng lại dây hút phải có hai lọ betadin một lọ ngâm dây hút miệng, một lọ ngâm dây hút NKQ. Thở máy:Đảm bảo hệ thống đường thở kín. Thường xuyên kiểm tra hệ thống dây thở xem có nứt vỡ không thì phải thay dây. Bình làm ẩm luôn đổ nước đúng quy định. Thay dây máy thở, bầu lọc khuẩn ngày một lần. Tuần hoàn: Các đường dây truyền dịch đảm bảo thông tốt. Nếu đặt tĩnh mạch ngoại vi thì 3 ngày đổi một lần, vệ sinh vùng chọc hàng ngày. TMDĐ: Thay băng chân tĩnh mạch dưới đòn ngày 1 lần, 10 ngày thì thay cả TMDĐ Thay sonde dạ dày: Thay sonde bàng quang 3 ngày một lần. Vệ sinh bơm rửa bàng quang hàng ngày. Nuôi dưỡng: Đảm bảo 1800-2000 Kcal/ngày. Số lượng 1500-2000 ml/24h chia đều trong ngày đến 21h. Trước khi bơm ăn chú ý xem sonde có trong dạ dày không bằng cách hút dịch vị dư. 2, Các món ăn cho người bị chấn thương sọ não Sau tai nạn, các bệnh nhân chấn thương sọ não thường lâm vào tình trạng suy nhược thần kinh với các biểu hiện đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, mất ngủ, trí nhớ giảm sút… Do đó việc sử dụng các món ăn bài thuốc cũng có vai trò quan trọng để giúp bệnh nhân nhanh chóng hồi phục và khỏe mạnh hơn. Sau đây là một số món ăn bài thuốc cụ thể: Bài thuốc 1: Hạt sen (cả tâm) 50 g sao vàng, tán bột; long nhãn 30 g, đường phèn vừa đủ; nấu thành chè, chia ăn vài lần trong ngày. Món ăn này có công dụng bổ hư, dưỡng tâm, an thần, dùng cho người bị mất ngủ, hồi hộp, đánh trống ngực, dễ bị kích động… do chấn thương sọ não. Bài thuốc 2: Chim bồ câu 1 con làm sạch bỏ ruột, long nhãn, long vải, hạt sen, rượu vang mỗi thứ 10 g, kỷ tử 5 g, đường phèn 15 g. Tất cả hầm thật nhừ, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần. Thuốc có công dụng bổ ngũ tạng, an thần, ích trí, dùng cho người suy nhược cơ thể, hay đau đầu, mất ngủ, trí nhớ giảm sút sau chấn thương sọ não. Bài thuốc 3: Óc heo 100g, tỏi 20g bỏ vỏ thái vụn, gia vị vừa đủ. Tất cả đem hầm cách thủy, khi chín cho thêm chút dầu thực vật, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: Kiện não, an thần, ích trí; dùng cho người sau chấn thương bị mất ngủ, hoa mắt chóng mặt, hay quên, hay mộng mị. Bài thuốc 4: Đầu cá chép 1 cái, bạch chỉ 6 g, đường đỏ 20 g. Tất cả đem hầm nhừ, lấy nước uống. Dùng cho người tâm thần bất an, hay đau đầu, chóng mặt sau chấn thương sọ não. Bài thuốc 5: Lá sen 6g, kim ngân hoa 6g, vỏ dưa hấu 6g, hoa đậu ván trắng 6g, vỏ quả mướp 6g. Tất cả đem sắc nước uống thay trà trong ngày. Công dụng thanh tâm, an thần định huyễn; dùng cho người hay bị hoa mắt, chóng mặt, có cảm giác nóng trong ngực, nóng lòng bàn tay, bàn chân, đại tiện táo, tiểu tiện vàng đỏ. Lưu ý: Bệnh nhân nên tránh các chất kích thích (như cà phê, trà đặc, rượu, bia, thuốc lá) và các thức ăn khó tiêu. Đồng thời chú ý rèn luyện sức khỏe hợp lý theo thể trạng và vệ sinh cá nhân cũng như giữ tinh thần luôn lạc quan, vui vẻ. Kết hợp với chế độ dinh dưỡng, chế độ sinh hoạt và quá trình phục hồi sau chấn thương, bệnh nhân có thể sử dụng thêm sản phẩm bổ não giúp bảo vệ não bộ, ngăn chặn thoái hóa tế bào não và cải thiện đáng kể khả năng ghi nhớ cũng như thiếu hụt nhận thức sau chấn thương sọ não gây ra. Chia sẻ

Loading...